Biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến tài nguyên nước mặt bằng việc thay đổi lưu lượng của dòng chảy, xu hướng giảm dần do thiếu hụt lượng mưa trong thời kỳ kéo dài.
Thêm vào đó, lượng bốc hơi trung bình hàng năm tăng do nhiệt độ gia tăng, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tự điều chỉnh của sông suối, nguy cơ ô nhiễm nguồn nước do tích tụ các lớp chất trầm tích,…
Giá trị giới hạn tối đa các thông số ảnh hưởng tới sức khỏe con người về chất lượng nước mặt theo quy định tại QCVN 08:2023/BTNMT?
Theo quy định, giá trị giới hạn tối đa các thông số ảnh hưởng tới sức khỏe con người về chất lượng nước mặt hiện nay được thực hiện tại Bảng 1 Mục 2 QCVN 08:2023/BTNMT như sau:
Theo đó, chất lượng nước mặt phải đảm bảo được các giá trị giới hạn tối đa các thông số ảnh hưởng tới sức khoẻ con người tại Bảng 1 Mục 2 QCVN 08:2023/BTNMT.
Việc đánh giá chất lượng nước dựa trên giá trị giới hạn tối đa các thông số ảnh hưởng tới sức khoẻ con người được thực hiện theo những nguyên tắc nào?
Tiểu mục 2.2 Mục 2 QCVN 08:2023/BTNMT quy định về nguyên tắc đánh giá chất lượng nước mặt dựa trên giá trị giới hạn tối đa các thông số ảnh hưởng tới sức khoẻ con người như sau:
Nguyên tắc đánh giá chất lượng nước theo quy định tại Bảng 1
– Căn cứ vào mục tiêu kế hoạch quản lý chất lượng nước và chương trình quan trắc để lựa chọn các thông số cần quan trắc trong Bảng 1;
– Dữ liệu quan trắc để đánh giá chất lượng nước sông, suối, kênh, mương, khe, rạch bao gồm giá trị trung bình số học hàng năm tại từng điểm đo đặc trưng, ít bị tác động cục bộ trong 1 khu vực sông, suối, kênh, mương, khe, rạch với tần suất quan trắc tối thiểu là 06 lần/năm;
– Dữ liệu quan trắc để đánh giá chất lượng nước của hồ, ao, đầm là giá trị trung bình số học hàng năm của tất cả các điểm quan trắc trong hồ, ao, đầm với tần suất quan trắc tối thiểu là 06 lần/năm;
– Chất lượng nước tại 1 điểm đo được đánh giá là không đáp ứng mục tiêu bảo vệ sức khỏe con người nếu giá trị trung bình số học hàng năm của ít nhất 1 thông số vượt quá ngưỡng quy định tại Bảng 1.
Theo đó, việc đánh giá chất lượng nước dựa trên giá trị giới hạn tối đa các thông số ảnh hưởng tới sức khoẻ con người được thực hiện theo những nguyên tắc sau:
– Căn cứ vào mục tiêu kế hoạch quản lý chất lượng nước và chương trình quan trắc để lựa chọn các thông số cần quan trắc theo giá trị giới hạn tối đa các thông số ảnh hưởng tới sức khoẻ con người;
– Dữ liệu quan trắc để đánh giá chất lượng nước sông, suối, kênh, mương, khe, rạch bao gồm giá trị trung bình số học hàng năm tại từng điểm đo đặc trưng, ít bị tác động cục bộ trong 1 khu vực sông, suối, kênh, mương, khe, rạch với tần suất quan trắc tối thiểu là 06 lần/năm;
– Dữ liệu quan trắc để đánh giá chất lượng nước của hồ, ao, đầm là giá trị trung bình số học hàng năm của tất cả các điểm quan trắc trong hồ, ao, đầm với tần suất quan trắc tối thiểu là 06 lần/năm;
– Chất lượng nước tại 1 điểm đo được đánh giá là không đáp ứng mục tiêu bảo vệ sức khỏe con người nếu giá trị trung bình số học hàng năm của ít nhất 1 thông số vượt quá ngưỡng quy định tại giá trị giới hạn tối đa các thông số ảnh hưởng tới sức khoẻ con người.
Các mức phân loại đánh giá chất lượng nước mặt?
Căn cứ quy định tại Tiểu mục 2.1 Mục 2 QCVN 08:2023/BTNMT, có 04 mức phân loại đánh giá chất lượng nước mặt gồm:
Mức A: Chất lượng nước tốt. Hệ sinh thái trong môi trường nước có hàm lượng oxy hòa tan (DO) cao. Nước có thể được sử dụng cho mục đích cấp nước sinh hoạt, bơi lội, vui chơi dưới nước sau khi áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp.
Mức B: Chất lượng nước trung bình. Hệ sinh thái trong nước tiêu thụ nhiều oxy hòa tan do một lượng lớn chất ô nhiễm. Nước có thể sử dụng cho mục đích sản xuất công nghiệp, nông nghiệp sau khi áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp.
Mức C: Chất lượng nước xấu. Hệ sinh thái trong nước có lượng oxy hòa tan giảm mạnh do chứa một lượng lớn các chất ô nhiễm. Nước không gây mùi khó chịu, có thể được sử dụng cho các mục đích sản xuất công nghiệp sau khi áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp.
Mức D: Nước có chất lượng rất xấu, có thể gây ảnh hưởng lớn tới cá và các sinh vật sống trong môi trường nước do nồng độ oxy hòa tan thấp, nồng độ chất ô nhiễm cao. Nước có thể được sử dụng cho các mục đích giao thông thuỷ và các mục đích khác với yêu cầu nước chất lượng thấp.